Chú thích Kinh Thư

  1. Baxter & Sagart (2014), tr. 327-378.Lỗi sfnp: không có mục tiêu: CITEREFBaxterSagart2014 (trợ giúp)
  2. Thượng Thư chính nghĩa, quyển 1: Thượng Thư tự: Thượng giả, thượng dã, ngôn thử thượng đại dĩ lai chi thư, cố viết Thượng Thư
  3. Thượng Thư chính nghĩa, quyển 1: Thượng cổ hữu Ngu thị chi thư, cố viết Thượng Thư
  4. Mặc Tử, Minh quỷ hạ: Cố thượng giả Hạ thư kì thứ Thương Chu chi thư
  5. Thượng Thư giả, thượng cổ đế vương chi thư, hoặc dĩ vi thượng sở vi, hạ sở thư, cố vị chi Thượng Thư
  6. Hán thư, quyển 30, Nghệ văn chí: Tả sử ký ngôn, hữu sử ký sự
  7. Có sử liệu ghi ngược lại là tả sử ghi chép sự việc, hữu sử ghi chép lời nói, như sách Lễ ký, thiên Ngọc tảo: "Hành động thì tả sử ghi chép, lời nói thì hữu sử ghi chép" (Động tắc tả sử thư chi, ngôn tắc hữu sử thư chi). Văn tâm điêu long, Sử truyện: "Xưa kia, tả sử ghi chép sự việc, hữu sử ghi chép lời nói" (Cổ giả, tả sử ký sự giả, hữu sử ký ngôn giả).
  8. Khổng Dĩnh Đạt trong Thượng Thư chính nghĩa dẫn Vĩ thư nói rằng: "Khổng Tử tìm Kinh Thư, được Kinh Thư của cháu huyền tôn của Hoàng ĐếĐế Khôi, kết thúc vào thời Tần Mục công, bao gồm 3240 thiên. Bèn bỏ xa lấy gần, định lại còn 120 thiên để có thể làm phép tắc cho đời, lấy 102 thiên làm Thượng Thư, 18 thiên làm Trung Hậu. Bỏ đi 3120 thiên" (Khổng Tử cầu Thư, đắc Hoàng Đế huyền tôn Đế Khôi chi thư, hất ư Tần Mục công, phàm tam thiên nhị bách tứ thập thiên. Đoạn viễn thủ cận, định khả vi thế pháp giả bách nhị thập thiên: dĩ bách nhị thiên vi Thượng Thư, thập bát thiên vi Trung Hậu. Khử tam thiên nhất bách nhị thập thiên).
  9. 1 2 3 Hán thư, quyển 30, Nghệ văn chí
  10. 1 2 3 4 5 Lai lịch Kinh Thư, bài giới thiệu Kinh Thư của Nhượng Tống ở đầu bản dịch năm 1940
  11. Bì Tích Thụy chỉ rõ: "Lưu Hâm kiến nghị lập kinh thư (Cổ văn) (làm quốc học), đến cuối thời Hán các kinh này trở nên thịnh hành, kinh thư do Kim văn bác sĩ truyền lại không phái nào còn [...] Chỉ có Trịnh Quân đại sư, lại gặp phải loạn lạc cuối thời Hán, nhà Tấn không khôi phục được hết, Ngũ Hồ làm loạn Trung Hoa, loạn trong niên hiệu Vĩnh Gia, Kinh Dịch của ba phái Lương Khâu, họ Thi, họ Cao đều bị mất, Kinh Thư của ba phái Âu Dương, Đại-Tiểu Hạ Hầu cũng bị mất, Tề thi đã mất về đời Ngụy, Lỗ thi không qua được Giang Đông, Hàn thi tuy còn nhưng không có người truyền dạy, Kinh Dịch của ba phái Mạnh, Kinh, Phí cũng không có truyền nhân, Công Dương, Cốc Lương tuy còn nhưng cũng như mất. Vì vậy Kim văn hoàn toàn thất truyền" (Lưu Hâm nghị lập chư kinh, chí Hán mạt nhi chư kinh thịnh hành, Kim văn bác sĩ sở truyền vô nhất gia tồn giả [...] Ký hữu Trịnh Quân đại sư, hựu tao Hán mạt tang loạn, Tấn phục bất cánh, Ngũ Hồ loạn Hoa, Vĩnh Gia chi loạn, Dịch vong Lương Khâu, Thi thị, Cao thị, Thư vong Âu Dương, Đại Tiểu Hạ Hầu, Tề thi Ngụy thế dĩ vong, Lỗ thi bất quá Giang Đông, Hàn thi tuy tồn, vô truyền chi giả, Mạnh, Kinh, Phí Dịch, diệc vô truyền nhân, Công, Cốc, tuy tại nhược vong. Vu thị Kim văn chi truyền tuyệt hĩ).
  12. 1 2 Sử ký, quyển 121: Nho lâm liệt truyện: Phục Sinh
  13. Theo Tùy thư, quyển 32, Kinh tịch chí, thì thiên Thái thệ do một người con gái ở Hà Nội hiến cho triều đình.
  14. Thời Hán thông dụng kiểu chữ lệ nên sách viết bằng chữ lệ được gọi là kim văn, còn các loại chữ viết trước thời Tần được gọi là cổ văn.
  15. Theo Thượng Thư tự thuyết của Tống Tường Phượng, tên gọi Kim văn Thượng Thư xuất hiện vào thời Đông Tấn, theo Lễ ký chính nghĩa của Khổng Dĩnh Đạt thì tên gọi Kim văn Thượng Thư bắt đầu thông dụng vào thời Đường.
  16. Theo bài giới thiệu Kinh Thư trong bản dịch của Trần Lê Sáng và Phạm Kỳ Nam
  17. 1 2 Vấn đề sách ngụy của Phan Khôi, đăng trên báo Đông tây, Hà Nội, số 110 (30.9.1931)
  18. Hán thư, Nghệ văn chí nói rằng Khổng An Quốc hiến bản Cổ văn Thượng Thư cho triều đình, nhưng vì gặp nạn vu cổ nên chưa được liệt vào hàng học quan (An Quốc hiến chi, tao vu cổ sự, vị liệt ư học quan). Tuy nhiên, Thượng Thư Cổ văn sớ chứng, quyển 2 của Diêm Nhược Cừ nói rằng: "Ta vẫn thường nghi việc An Quốc hiến Kinh Thư, gặp phải nạn vu cổ, tuổi tác ắt phải cao, so với Tư Mã Thiên nói rằng (An Quốc) chết sớm là không phù hợp. Nếu tin vào Sử ký nói rằng (An Quốc) chết sớm, thì người hiến Thư nói trong Hán thư không phải là An Quốc, còn nếu tin việc hiến Thư nói trong Hán thư, thì An Quốc không thể chết sớm như trong Sử ký. Tư Mã Thiên đã từng giao du với An Quốc, thì năm sinh năm mất không thể nào nhầm được. Thiết nghĩ sau niên hiệu Thiên Hán, An Quốc mất đã lâu, người hiến Thư là con cháu trong nhà chứ không phải bản thân (An Quốc), nhưng khổ nổi không có bằng chứng rõ ràng. Hơn nữa khi đọc trong sách Hán kỷ, Thành Đế kỷ, nói rằng: "Lỗ Cung Vương phá nhà Khổng Tử, lấy được Cổ văn Thượng Thư, có nhiều hơn 16 thiên. Thời Vũ Đế, nhà Khổng An Quốc (Khổng An Quốc gia) hiến cho triều đình, gặp phải nạn vu cổ, chưa được liệt vào hàng học quan". Sau chữ An Quốc có thêm một chữ "gia", bổ sung chỗ thiếu sót của Hán thư" (Dư thường nghi An Quốc hiến Thư, tao vu cổ chi nạn, kế kì niên tất cao, dữ Mã Thiên sở vân tảo tuất giả bất hợp. Tín Sử ký tảo tuất, tắc Hán thư chi hiến Thư tất phi An Quốc, tín Hán thư hiến Thư, tắc Sử ký chi An Quốc tất phi tảo tuất. Nhiên Mã Thiên thân tòng An Quốc du giả dã, ký kì sinh tuất tất bất ngộ giả dã. Thiết ý Thiên Hán hậu, An Quốc tử dĩ cửu, hoặc kì gia tử tôn hiến chi, phi tất kì thân, nhi khổ vô minh chứng. Việt sổ tái, độc tuân duyệt Hán kỷ, Thành Đế kỷ vân: Lỗ Cung Vương hoại Khổng Tử trạch, đắc Cổ văn Thượng thư, đa thập lục thiên. Vũ Đế thì, Khổng An Quốc gia hiến chi. Hội vu cổ sự, vị liệt ư học quan. Vu An Quốc hạ tăng nhất "gia" tự, túc bổ Hán thư chi lậu).
  19. Thượng Thư Cổ văn sớ chứng: Chu Tử cổ văn thư nghi: Thượng Thư 1: Khổng bích sở xuất Thượng Thư, như Vũ mô, Ngũ tử chi ca, Dận chinh, Thái thệ, Vũ thành, Quýnh mệnh, Vi Tử chi mệnh, Sái Trọng chi mệnh, Quân Nha đẳng thiên giai bình dị, Phục Sinh sở truyền giai nan độc, như hà Phục Sinh thiên ký đắc nan để, chí ư dị để toàn bất ký đắc? Thử bất khả hiểu.
  20. Kinh Thư, thiên Đại Vũ mô
  21. Thượng Thư Cổ văn sớ chứng, quyển 2, thiên thứ 31
  22. Tứ khố toàn thư tổng mục, Kinh bộ thư loại 2: Bách kế tương loát, chung bất năng dĩ cưỡng từ đoạt chính lý.
  23. Trong Thượng Thư hậu án, Biện Khổng Dĩnh Đạt sớ, Vương Minh Thịnh nói rằng tác giả bản ngụy thư này nếu không phải là Vương Túc thì là Hoàng Phủ Mật.
  24. 李莉 (ngày 5 tháng 1 năm 2011). “清华简首批研究成果发布 重现两千年前《尚书》[Công bố kết quả nghiên cứu thẻ tre Thanh Hoa, phát hiện bản Kinh Thư cách đây 2000 năm]”. 科学网. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2011.
  25. 赵婀娜, 刘思思 (ngày 6 tháng 1 năm 2011). “清华大学5日公布首批战国竹简研究成果 失传两千多年《尚书》遗篇重现 [Ngày 5, Đại học Thanh Hoa công bố kết quả nghiên cứu thẻ tre thời Chiến Quốc phát hiện nhiều thiên Kinh Thư bị thất truyền hơn 2000 năm qua]”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2015. line feed character trong |title= tại ký tự số 19 (trợ giúp)
  26. 范丽 (ngày 7 tháng 1 năm 2013). “清华大学藏战国竹简(叁)成果发布 [Công bố công trình Đại học Thanh Hoa lưu trữ thẻ tre thời Chiến Quốc (3)]”. 清华新闻网. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2015.
  27. 1 2 马楠 (ngày 9 tháng 4 năm 2015). “《清华大学藏战国竹简》(伍)成果发布会在京召开 [Khai mạc hội nghị công bố công trình Đại học Thanh Hoa lưu trữ thẻ tre thời Chiến Quốc (5) tại Bắc Kinh]”. 清华新闻网. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  28. 李学勤 (ngày 5 tháng 9 năm 2015). “清华简再现《尚书》佚篇 [Thẻ tre Thanh Hoa giúp tái hiện các thiên Kinh Thư bị thất truyền]”. 中国教育新闻网.
  29. Cố Hiệt Cương, Lưu Khởi Vu, Thượng Thư hiệu thích dịch luận, Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, tháng 4 năm 2005, trang 2157-2161.
  30. Thượng Thư tự (lời tựa Kinh Thư)
  31. Kinh Thư do Thẩm Quỳnh dịch, Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1965, tr.20-21
  32. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 23
  33. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 24
  34. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 27
  35. 1 2 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 28
  36. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 29
  37. 1 2 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 30
  38. 1 2 3 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 31
  39. 1 2 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 32
  40. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 34
  41. 1 2 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 35
  42. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 36
  43. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 37
  44. 1 2 3 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 38
  45. 1 2 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 39
  46. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 40–43
  47. 1 2 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 47
  48. 1 2 3 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 48
  49. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 49
  50. 1 2 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 51
  51. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 52
  52. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 53
  53. 1 2 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 54
  54. 1 2 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 55
  55. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 56
  56. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 57
  57. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 58
  58. 1 2 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 59
  59. 1 2 3 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 60
  60. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 61
  61. 1 2 Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 62
  62. Thư kinh diễn nghĩa, Ngô Thế Long và Trần Văn Quyền dịch, Nhà xuất bản TP.HCM, 1993, trang 63
  63. Hán thư, quyển 88, Nho lâm truyện: Nhất kinh chi thuyết chí bách dư vạn ngôn
  64. Hoàn Đàm trong Tân luận có nói về một nhà kim văn học thuộc phái Tiểu Hạ Hầu là Tần Cung nói rằng bốn chữ viết nhược kê cổ có thể giải thích bằng 3 vạn chữ: "Tần Cận Quân có thể giải thích ý nghĩa hai chữ Nghiêu điển lên tới hơn 10 vạn chữ, giải thích bốn chữ viết nhược kê cổ lên tới 3 vạn chữ" (Tần Cận Quân năng thuyết Nghiêu điển thiên mục lưỡng tự chi nghị, chí thập dư vạn ngôn, đán thuyết viết nhược kê cổ, tam vạn ngôn). Người thời Bắc TềNhan Chi Suy trong sách Nhan thị gia huấn, thiên Miễn học phê bình loại quan bác sĩ như Tần Cung như sau: "Nghiệp Hạ có câu ngạn ngữ rằng: Bác sĩ mua lừa, viết giấy khoán ba tờ, chưa có chữ lừa" (Bác sĩ mãi lư, thư khoán tam chỉ, vị hữu lư tự), ý nói viết tràng giang đại hải khiến người đọc không hiểu được ý chính là gì.
  65. Kê cổ đồng thiên, ngôn Nghiêu đồng ư thiên
  66. Thuận khảo cổ đạo nhi hành chi
  67. Tiến học giải: Chu cáo, Ân Bàn, cật khuất ngao nha
  68. Kinh Thư, thiên Nghiêu điển
  69. Sử ký, quyển 1, Ngũ đế bản kỷ: Nghiêu
  70. Pháp ngôn, Vấn thần: Tích chi thuyết Thư giả tự dĩ bách [...] Ngu Hạ chi thư hồn hồn nhĩ, Thương thư hạo hạo nhĩ, Chu thư ngạc ngạc nhĩ
  71. Vương Quốc Duy trong "Cùng bạn bè bàn luận thành ngữ trong Kinh Thi, Kinh Thư" nói rằng: "Kinh Thi, Kinh Thư là sách người người đều đọc, nhưng trong lục nghệ là khó đọc nhất. Theo ngu kiến của tôi, trong Kinh Thư mười phần thì có gần năm phần không giải thích được, trong Kinh Thi mười phần thì cũng có một hai phần không giải thích được" (Thi, Thư vi nhân nhân tụng độc chi thư, nhiên ư lục nghệ trung tối nan độc. Dĩ đệ chi ngu ám, ư Thư sở bất năng giải giả, đãi thập chi ngũ, ư Thi diệc thập chi nhất nhị).
  72. Theo Nhượng Tống thì thiên Thuấn điển được tìm thấy trong niên hiệu Khai Hoàng nhà Tùy.
  73. Nhật tri lục, quyển 2: Thiết nghi cổ thời hữu Nghiêu điển vô Thuấn điển, hữu Hạ thư vô Ngu thư, nhi Nghiêu điển diệc Hạ thư dã
  74. Án Tả truyện, Văn thập bát niên minh vân Ngu thư, sổ Thuấn chi công viết "thận huy ngũ điển" vân vân, an đắc vị chi "hữu Hạ thư vô Ngu thư" hồ? Thiết ý cổ nhân cái dĩ nhị điển vi Ngu thư, Đại Vũ mô dĩ hạ vi Hạ thư dã.
  75. Mạnh Tử, Tận tâm hạ: Tận tín Thư, tắc bất như vô Thư. Ngô ư Vũ thành, thủ nhị tam sách nhi dĩ hĩ. Nhân nhân vô địch ư thiên hạ. Dĩ chí nhân phạt chí bất nhân, nhi hà kì huyết chi lưu chử dã?
  76. Tất đa sơ lậu mậu ngộ chi xứ
  77. Đại Việt sử ký bản kỷ toàn thư, quyển 8, Kỷ nhà Trần: Thuận Tông Hoàng đế
  78. 1 2 3 Trịnh Khắc Mạnh. “Thư tịch Hán Nôm Việt Nam luận giải về Tứ thư và Ngũ kinh hiện có ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm”. Tạp chí Hán Nôm.
  79. Phạm Văn Thắm (ngày 23 tháng 11 năm 2010). “Văn bản Thư kinh diễn nghĩa”. Thông báo Hán Nôm 2008.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kinh Thư http://news.tsinghua.edu.cn/publish/news/4204/2013... http://news.tsinghua.edu.cn/publish/news/4207/2011... http://www.tsinghua.edu.cn/publish/cetrp/6828/2015... http://paper.jyb.cn/zgjyb/html/2014-09/05/content_... http://news.sciencenet.cn/htmlnews/2011/1/242435.s... http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://chinese.dsturgeon.net/text.pl?node=21030&if... http://www.gocnhin.net/cgi-bin/viewitem.pl?1066 http://www.yugyo.org/eng/thought/main41b_2.php?lan... http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0501.htm